Venice về đêm cũng đẹp lạ lùng, khởi hành từ nhà ga Venice-Mestre để đến sân bay tiễn Hải đi Pháp, An ngắm Venice chạy vút qua ô cửa của toa tàu, Hải ngồi cạnh cô, cũng trầm ngâm không nói.
An đứng chòng chành trong căn phòng tối, vệt đèn đường nhợt nhạt hắt vào ngăn tủ treo bật cánh. Tùng ngồi chiếc giường phía đối diện, dương cặp mắt nguội lạnh nhìn cô. Anh cười cười, nụ cười tự giễu, Tùng đã nói với An những điều không tưởng, tình yêu đẹp như mộng của cả hai, bao nhiêu hứa hẹn, cuối cùng vẫn thua hiện thực. An giật tung chiếc váy cưới đã kì công đặt riêng thiết kế được treo trong ngăn tủ, cô như gào lên:
- Tùng, anh cút đi, cút ngay khỏi đây. Đừng bao giờ để tôi thấy bộ mặt trơ trẽn của cả hai người.
Tùng bước ra theo những đồ vật An quăng quật về phía cửa. Trèo lên chiếc xe đạp tay ngang rồi lao mình về phía con đường hun hút, đêm đen nuốt chửng anh. An nhìn theo bóng Tùng, rấm rứt những âm thanh uất nghẹn trong cổ họng.
An rời khỏi Việt Nam, ngay lập tức nhưng không phải đến Paris mà là Venice. Lẽ ra cô không nên trở về Việt Nam. Lẽ ra cô không nên điên lên lúc nghe Tùng nói chia tay đột ngột qua điện thoại, báo rằng anh sắp kết hôn để rồi tức tốc trở về nói những lời níu kéo vô nghĩa lí. Lẽ ra cô nên dửng dưng cho tương xứng với cái cách Tùng đối xử với mối quan hệ của hai người, tàn nhẫn và nguội lạnh.
An thật không ngờ, Tùng mà cô quen ngày xưa, tình cảm, ngọt ngào sau ba năm xa cách lại trở thành một gã trai có nụ cười nửa miệng ngạo nghễ, quá điên cuồng chạy theo tham vọng, càng chẳng ngờ người đã từng rất yêu cô lại phản bội cô, ngay đến một lời xin lỗi cũng không hề có. Tùng bây giờ rõ ràng là một kẻ cơ hội. Vợ của anh là con gái chủ tịch một tập đoàn lớn, nơi Tùng đang làm việc và ngấp nghé vào cái chức giám đốc điều hành. Quan trọng hơn cô ta đang mang cái thai hơn 3 tháng – một “sự cố” có sắp đặt của Tùng. An cười khẩy lúc nghe đám bạn nói về Tùng.
Tùng ở hiện tại, rõ ràng không phải thứ cô nên tiếc rẻ, vậy mà chẳng hiểu sao nước mắt vẫn cứ nhoè nhoẹt khi đối diện với anh. Có lẽ bởi cô đã quá tin anh để rồi hiện tại, không thể nào chấp nhận một Tùng khác xưa và chẳng còn yêu cô nữa. An chợt thấy những mộng ước xưa vô nghĩa lí. Đàn ông bây giờ yêu phụ nữ quyền lực, chẳng cần biết bản chất thực sự của tình yêu đó là gì, chỉ chắc đâu có chàng trai nào muốn chạy theo An – cô gái không có gì ngoài những mộng ước, luôn sợ hãi những điều quá khốc liệt và đôi chân chỉ chực chờ muốn bay nhảy đó đây.
An gục mặt vào đống sách cao ngất trong một góc phòng đọc của thư viện giữa lòng Venice xinh đẹp. Nàng công chúa ấy – nơi mà cô từng rất yêu giờ đây cũng chẳng thể xóa được những hoang mang ngang ngổn. Đầu óc cô nặng trĩu vì đã khóc suốt chuyến bay dài. Bỗng nghe một giọng nam nhỏ nhẹ:
- Are you ok?
Lại anh chàng nhiều chuyện nào đây, An cau mày, vẫn không ngẩng lên mà đưa tay xua tứ phía:
- Leave me alone!
Chàng trai lắc đầu, vừa quay ra vừa lẩm nhẩm:
- Làm gì mà ghê vậy.
Giữa lúc chấp chới nhất nơi đất khách quê người bỗng nghe một tiếng quê hương dù là chẳng quen, chẳng biết vẫn cứ như vớ được cái phao cứu sống tâm trạng mình. An bật dậy ngay, vội đưa tay kéo cái bóng dáng mặc chiếc áo len màu ghi bên ngoài sơ mi trắng mà gọi như sợ mất:
- Này, đợi chút coi.
Chúng tôi bắt chuyện với nhau dễ dàng như thế. Cô gái có mái tóc nhuộm sắc nâu đỏ đã khiến tôi nhầm tưởng là một cô nàng ngoại quốc. An rất bướng, đó là ấn tượng đầu tiên của tôi về An. Cô ấy đang khủng hoảng nhưng tuyệt nhiên không để người ta thấy được mình thất bại.
Vào buổi chiều An níu tay tôi sau thái độ chẳng mấy lịch sự trước đó trong phòng đọc thư viện, tôi biết cô gái ấy sẽ còn đeo đẳng tâm trí mình nhiều hơn nữa.
Tôi không biết rõ vì sao An lại có thái độ kì lạ vậy. Tôi hỏi, An trả lời nhấm nhẳng:
- Bồ đá! Rồi cười khẩy chua xót. Tôi cố hỏi sâu hơn nữa, An giơ nắm đấm trước mặt:
- Hoặc im lặng rồi ngồi yên đây, hoặc phắn đi chỗ khác. Chị không thừa thời gian để trả lời chú.
- Này, nhiêu tuổi vậy mà đòi làm chị?
An nguýt dài còn tôi cười khoái trá. Cô nhóc này, đúng thật rất thú vị. Tôi không nhớ chính xác đã ngồi cạnh An bao lâu trong buổi chiều đó giữa lòng Venice bảng lảng sương khói. Người lái đò là một chàng thanh niên người Ý chỉ chừng 19 tuổi cứ thế dẫn chúng tôi len qua những kênh rạch chằng chịt và xanh ngắt, cất giọng cho một điệu hò nào đó tôi không rõ tên nhưng nghe rất yên bình.
Trên bờ, từng dãy nhà theo kiến trúc kiểu cổ phần nhiều đã phủ rêu, ban công nhà nào nhà nấy đều rượi màu xanh mát, những bóng dáng dập dìu đi lại trên đường phố cũng như thi vị hơn sau lớp sương mỏng của Venice mùa này. Thành phố của những cặp tình nhân khiến chúng tôi – hai kẻ đơn độc như lạc loài để rồi vô tình bắt gặp, kẻ nói, người không nhưng chung quy lại, tôi và An đáng thương như nhau.
Tôi đến Venice tìm cảm hứng cho bộ ảnh mình sẽ dùng trưng bày trong lễ tốt nghiệp. Tôi theo học chuyên ngành nhiếp ảnh của một trường nghệ thuật không mấy danh tiếng ở Paris, để thỏa đam mê và cũng muốn nhịp sống bận rộn, mới lạ nơi đất khách giúp mình nguôi ngoai quá khứ, chẳng ngờ một nửa cô đơn vẫn hoàn cô đơn, tôi vẫn không thể cười như trước.
Dương với tôi là bạn thanh mai trúc mã. Chúng tôi yêu nhau, một lẽ rất thường tình, một mối tình bình lặng và êm đẹp, dự định về ngôi nhà hạnh phúc, sẽ có mấy đứa con, con trai tên gì, con gái tên gì đều đã được hoạch định từ rất lâu, tưởng như sắp với tay tới rồi, vậy mà…
Năm hai đại học, đùng một cái, Dương lên xe hoa với một người đàn ông đáng tuổi cha chú, bụng bia, râu xồm, cái thai đã được hơn ba tháng tuổi. Tôi chết lặng ngày nhận cái tin ấy, không thể tin nổi vào tai mình. Dương của tôi – cô gái thánh thiện mà tôi yêu với một tình yêu đến mức ngưỡng vọng đó sao?
Ngay lập tức, tôi thôi học chuyên ngành kinh doanh mà gia đình vẫn luôn mong muốn và mặc những lời van nài của mẹ, tôi gom hết vốn liếng có được từ những kế hoạch kinh doanh của mình, một mình sang Pháp để trốn chạy sự thật đau lòng. Tôi chọn nhiếp ảnh, phần vì sở thích bấy lâu nay, phần vì muốn mình bận rộn với thứ gì đó để nguôi ngoai nỗi buồn. Dần dà cũng có chỗ đứng riêng trong câu lạc bộ, tôi nhận những hợp đồng chụp ảnh ngoại cảnh cho nhiều du học sinh yêu thích thời trang, số tiền thu được không nhiều, chỉ đủ chi phí để tôi đi thêm vài nơi tìm cảm hứng cho những bộ ảnh mới. Rượt đuổi mãi, thấm thoắt cũng bốn năm qua đi, vết thương lành miệng nhưng nỗi hoang hoải không thể nào vơi bớt. Cuối cùng cũng sắp phải trở về, tôi biết, dù ở đâu thì cũng như nhau cả thôi. Tôi chẳng còn lí do gì để tiếp tục ở lại Paris hoa lệ nữa. Về, về thôi khi đôi chân mệt mỏi và những xúc cảm trống rỗng. Tôi… thèm yêu!
An như là hiện thân của những khao khát đó. Từ nụ cười, từ ánh mắt đều rực lên một nét gì mãnh liệt. Lần đầu tiên nhìn An, tôi tự nhiên thấy trong mình một niềm mong mỏi. Tôi muốn chạy nữa, chạy mãi nhưng cùng nắm tay một cô gái nữa, là An – một cô gái khá “ngang ngược” – tôi dễ dàng nhận ra khi tiếp xúc với An và song hành, An biết che giấu những thương tổn của mình. Buổi chiều đó, khi níu tay tôi trong thư viện, nước mắt An chưa kịp khô còn vương trên rèm mi rủ bóng nhưng chỉ một lát sau, khi cùng An xuôi những con kênh xanh ngắt, An như biến thành một con người khác hơn. Hoặc An chưa đủ sẵn sàng để chia sẻ với tôi, hoặc cô gái ấy, luôn mạnh mẽ một cách đáng thương, tôi đoán vậy.
Ngày thứ 25 ở Venice, trời đẹp, nắng rót mật trên những cây cầu lớn nhỏ bao khắp thành phố, nước sông như sóng sánh hơn một bậc, An vẫn lang thang vài điểm đến thú vị quanh thành phố, nghĩ về Tùng với cái ý nghĩ thất vọng tột cùng, dù cô vốn là người dễ chấp nhận và cũng…dễ đổi thay. Một lần là đủ, thêm một giọt nước mắt cho Tùng cũng là không xứng đáng, An tự nhủ lòng như vậy....